Tin mới từng phút từ rất nhiều nguồn.
Vé tàu
2022
Bắc Nam, Địa phương https://www.vetau247.com

Cần sớm đưa các nội dung về Tương lai học vào chương trình đào tạo đại học ở Việt Nam

Giáo dục 01/12/2022 - 18:11

Có thể nói, trong thời đại của Cách mạng Công nghiệp 4.0, mọi lĩnh vực khoa học công nghệ đều phát triển rất nhanh. Và rất có thể những kiến thức được người thày dạy hôm nay sẽ sớm trở thành lạc hậu khi sinh viên chưa kịp tốt nghiệp ra trường. Chính vì vậy, tại các nước phát triển đã xuất hiện môn học về Tương lai học

Và rất có thể những kiến thức được người thày dạy hôm nay sẽ sớm trở thành lạc hậu khi sinh viên chưa kịp tốt nghiệp ra trường. Chính vì vậy, tại các nước phát triển đã xuất hiện môn học về Tương lai học trong chương trình đào tạo đại học từ rất nhiều năm trước đây.

ADVERTISEMENT

Cần sớm đưa các nội dung về Tương lai học vào chương trình đào tạo đại học ở Việt Nam - ảnh 1 ADVERTISEMENT

Vậy chúng ta phải tiếp cận với môn học này và nhân bản nó như thế nào. Trước hết, nói về định nghĩa thì Tương lai học là ngành khoa học là nghiên cứu có hệ thống, liên ngành và tổng thể về tiến bộ xã hội và công nghệ cũng như các xu hướng môi trường khác, thường nhằm mục đích khám phá cách mọi người sẽ sống và làm việc trong tương lai. Đây là môn học mang tính phương pháp luận và có lẽ cũng không biết nên xếp Tương lai học vào khoa học xã hội hay khoa học tự nhiên.

Năm 2010, thông qua Trường Đại học Giáo dục thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, một đối tác Anh Quốc đã tới Việt Nam để giới thiệu Việt Nam ngành học về tương lai học với 2 hội thảo lớn tại Hà Nội và TPHCM. Sự kiện này đã gây tiếng vang rất đáng kể nhưng sau đó không thấy các khóa học về Tương lai học được mở ra cho những người quan tâm và mong muốn tạo dựng vị thế cho lĩnh vực hết sức mới mẻ này.

Tại Việt Nam, cũng đã có một công trình nghiên cứu về lĩnh vực này của 2 tác giả Dương Quốc Quân (Hà Nội) và Lê Thị Tuyết (Lâm Đồng) với cuốn sách “ Khái lược Tương lai học” được Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật cho in năm 2012. Ít nhất, những người quan tâm đến lĩnh vực này có thể coi đây là tài liệu, giáo trình đầu tiên cho Tương lai học với các đại học ở Việt Nam.

Còn về phía các viện nghiên cứu chiến lược tại Việt Nam, được biết cho tới nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chính thức nào về Tương lai học. Theo một chuyên gia về nghiên cứu chiến lược đề nghị không nêu tên, xây dựng chiến lược tức là làm công tác dự báo. Tuy nhiên nếu chúng ta dự báo đúng và quá trình tổ chức, điều hành thực thi chiến lược được thực hiện thao đúng yêu cầu đặt ra thì đất nước đã quá phát triển. Song thưc tế đã diễn ra như thế nào thì những người trong cuộc chắc không khỏi buồn lòng (!).

Video đang HOT

Cũng chính vì thực tế đó, các kiến thức về Tương lai học cần phải sớm cập nhật vào chương trình đào tạo đại học ở Việt Nam. Theo không ít ý kiến, trước khi những kiến thức này đến với đông đảo sinh viên thì bản thân các bậc thầy, kể cả ở vị trí lãnh đạo của các đại học và viện nghiên cứu phải được đào tạo một cách khái quát nhất về Tương lai học.

ADVERTISEMENT

Tuy nhiên, Cách mạng Công nghiệp 4.0 là cuộc cách mạng khoa học mà chắc chắn là không ai đợi ai. Do đó, cả thầy và trò đều phải chủ động nắm bắt các kiến thức mang tính phương pháp luận về Tương lai học nhằm bổ sung vào hành trang tri thức của mình trước tốc độ phát triển hết sức nhanh chóng của khoa học công nghệ cả trong nước lẫn trên thế giới.

Nâng chất kiểm định viên đại học

Thế nhưng, công tác KĐCL vẫn chưa được như kỳ vọng bởi lực lượng kiểm định viên trong nước cũng như kiểm định viên quốc tế còn quá ít so với nhu cầu.

Chưa đạt mục tiêu đề ra

Theo PGS-TS Hoàng Minh Sơn, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT, công tác đảm bảo chất lượng được xem là vấn đề sống còn của các cơ sở giáo dục đào tạo để cải tiến, nâng cao chất lượng đào tạo và hội nhập quốc tế. Hệ thống văn bản pháp lý cho công tác đảm bảo chất lượng và KĐCL đã kiện toàn, nhưng kết quả thực hiện vẫn chưa được như mong đợi.

Giai đoạn 2011-2020, Bộ GD-ĐT đặt mục tiêu 95% cơ sở giáo dục và chương trình đào tạo được xem xét công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng. Thế nhưng, đến năm 2020, mới chỉ có 6% tổng số chương trình được kiểm định, số cơ sở đào tạo được kiểm định và công nhận theo tiêu chuẩn trong nước chỉ có 156/237 trường ĐH (chưa tính các trường cao đẳng sư phạm, các trường ĐH, học viện thuộc khối an ninh, quốc phòng).

Tại hội nghị tổng kết công tác KĐCL giai đoạn 2011-2020, thống kê từ Cục Quản lý chất lượng (Bộ GD-ĐT) cho thấy, cả nước có 259 cơ sở giáo dục hoàn thành báo cáo tự đ.ánh giá chất lượng (231 cơ sở giáo dục ĐH, 28 trường cao đẳng sư phạm); 159 cơ sở giáo dục ĐH và 9 trường cao đẳng sư phạm được các tổ chức KĐCL đ.ánh giá và 147 cơ sở giáo dục ĐH, 9 trường cao đẳng sư phạm được công nhận đạt chuẩn chất lượng.

ADVERTISEMENT

Về chương trình đào tạo, có 132 chương trình đào tạo đạt chuẩn kiểm định trong nước. Về đội ngũ kiểm định viên, hiện cả nước có 346 kiểm định viên được cấp thẻ. Trong đó, có 9 người được đặc cách, 337 người đạt yêu cầu và được cấp thẻ kiểm định viên. Như vậy, so với tổng số trường ĐH, cao đẳng sư phạm thì mỗi trường chưa có tới 2 kiểm định viên.

Cần sớm đưa các nội dung về Tương lai học vào chương trình đào tạo đại học ở Việt Nam - ảnh 2

Các chuyên gia kiểm định của Trung tâm KĐCL giáo dục (ĐH Quốc gia TPHCM) kiểm định cơ sở vật chất Trường ĐH Công nghiệp thực phẩm TPHCM

Số liệu mới nhất của Bộ GD-ĐT năm 2022 cho thấy, cả nước có 609/6.000 chương trình đào tạo ĐH chính quy đã được kiểm định (khoảng 10%). Trong đó, 373 chương trình (của 72 trường ĐH) được kiểm định bởi các tổ chức kiểm định trong nước; 236 chương trình (của 41 trường ĐH) được kiểm định bởi các tổ chức kiểm định nước ngoài. Hiện chưa trường nào có 100% chương trình đã được kiểm định, mà phần lớn các trường chỉ chọn những chương trình đào tạo mạnh nhất của mình để triển khai việc kiểm định trước.

Phải đổi mới cả chất và lượng

Tiến sĩ Thái Doãn Thanh, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Công nghiệp thực phẩm TPHCM, cho biết, công tác đảm bảo chất lượng và KĐCL luôn được các trường ĐH xem là chiến lược, là vấn đề thường xuyên. Chính vì vậy, xây dựng đội ngũ kiểm định viên cho công tác này rất quan trọng. Trường cử nhiều người đi học, nhưng đến nay mới chỉ có 1 người được cấp thẻ kiểm định viên.

ADVERTISEMENT

Tuy nhiên, vấn đề cần quan tâm là các kiểm định viên vừa ít lại vừa kiêm nhiệm quá nhiều việc: có người vừa quản lý, giảng dạy vừa kiêm luôn công tác kiểm định, có người thì vừa giảng dạy vừa quản lý. Các trường cần có chính sách và giảm tải để kiểm định viên chú tâm vào công tác kiểm định.

Là người tham gia từ những ngày đầu của công tác đảm bảo chất lượng và KĐCL, GS-TS Nguyễn Qúy Thanh, Hiệu trưởng Trường ĐH Giáo dục (ĐH Quốc gia Hà Nội), chia sẻ: Nghịch lý của công tác KĐCL hiện nay là nhiều tiêu chí cốt lõi thì không đạt, nhưng nhiều tiêu chí không cốt lõi lại đạt. Điều này một phần do các kiểm định viên quá ít kinh nghiệm, thiếu quyết đoán và xử lý theo kiểu "tình thương mến thương"!

Đại diện một trung tâm KĐCL giáo dục tại TPHCM cũng cho biết, trong công tác kiểm định hiện nay tồn tại nhiều vấn đề nhạy cảm, như: trung tâm A kiểm định không đạt nhưng đến trung tâm B kiểm định lại đạt; nhiều kiểm định viên còn "vòi" tiền và nhũng nhiễu các cơ sở...

ADVERTISEMENT

Những biểu hiện này một phần là do một số trung tâm kiểm định quá dễ dãi, và kiểm định viên thiếu các quy định ràng buộc dẫn đến lạm quyền. Vừa qua, Bộ GD-ĐT ban hành thông tư quy định tiêu chuẩn, đạo đức và năng lực của kiểm định viên giáo dục ĐH. Đây là một tín hiệu đáng mừng cho công tác xây dựng văn hóa chất lượng giáo dục ĐH. Phần còn lại là các trung tâm kiểm định và các cơ sở đào tạo phải thật sự xem chất lượng là vấn đề sống còn, chứ không phải làm theo kiểu đối phó.

"Nếu các trường chỉ chạy theo giấy chứng nhận chất lượng thì trước sau gì sẽ không có chất lượng thật, vì người học sau khi ra trường sẽ là kênh thông tin phản hồi thực chất nhất", một chuyên gia giáo dục nhận xét.

Trong khi đó, đại diện Cục Quản lý chất lượng (Bộ GD-ĐT) cho biết, cùng với thông tư vừa ban hành, Bộ GD-ĐT sẽ tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, giám sát hoạt động đảm bảo chất lượng và KĐCL, như xây dựng phần mềm quản lý hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về KĐCL giáo dục ĐH để giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác đảm bảo chất lượng. Trong đó có việc "kiểm định của kiểm định", đó là giám sát kết quả kiểm định của các cơ sở giáo dục và các tổ chức kiểm định.

Thông tư số 14/2022/TT-BGDĐT do Bộ GD-ĐT vừa ban hành (có hiệu lực từ ngày 25-11-2022) quy định kiểm định viên giáo dục ĐH và cao đẳng sư phạm có từ 5 năm trở lên là giảng viên hoặc hoạt động trong lĩnh vực quản lý giáo dục ĐH, cao đẳng sư phạm.
Thông tư còn quy định những việc kiểm định viên không được làm, như: lợi dụng nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm định viên để thực hiện hành vi trái nguyên tắc của hoạt động KĐCL giáo dục nhằm trục lợi từ cơ sở giáo dục, tổ chức KĐCL giáo dục và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan; móc nối, quan hệ với cơ sở giáo dục, tổ chức KĐCL giáo dục để làm trái quy định pháp luật trong việc thương thảo, ký kết hợp đồng tư vấn...; không nhận, đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác từ cơ sở giáo dục và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan ngoài khoản thù lao, chi phí đã thỏa thuận theo hợp đồng đã ký kết và theo quy định pháp luật...

Đại học Điện lực ký kết biên bản khảo sát sơ bộ 06 chương trình đào tạo đại học Vừa qua, Trường Đại học Điện lực đã phối hợp cùng Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội (KĐCLGD - ĐHQGHN) đã ký kết biên bản khảo sát sơ bộ và trao đổi, thống nhất về kế hoạch khảo sát...

Chia sẻ
Giáo dục