Tin mới từng phút từ rất nhiều nguồn.
Vé tàu
2022
Bắc Nam, Địa phương https://www.vetau247.com

Phó Giáo sư Trần Đăng Sinh: Từ người lính đến người thầy mê Triết học

Giáo dục 02/07/2022 - 08:20

Theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, năm 1972, Trần Đăng Sinh đã xung phong vào Nam chiến đấu. Đất nước hòa bình, ông xin đi học và trở thành nhà khoa học

Cách đây 50 năm, vào năm 1972, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước diễn ra vô cùng quyết liệt, Trần Đăng Sinh, chàng sinh viên năm nhất khóa K16 khoa Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội đã theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, xếp bút nghiên ra chiến trường.

Trong 10 năm ở quân đội, ông luôn khát khao có ngày trở về đi học, được cầm bút. Nhờ ý chí không ngừng vươn lên học tập và nghiên cứu, từ một người lính ông đã trở thành Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Chủ nhiệm khoa Triết học của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

Phó Giáo sư Trần Đăng Sinh: Từ người lính đến người thầy mê Triết học - ảnh 1

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đăng Sinh. Ảnh: Ngô Hiển

Xếp bút nghiên ra trận

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đăng Sinh sinh năm 1954 ở xã Tây Mỗ, huyện Từ Liêm, Hà Nội trong một gia đình nông dân nghèo.

Sinh ra trong cảnh đất nước chiến tranh, anh đã phải trải qua những năm tháng vừa học tập, lao động và sẵn sàng chiến đấu trước sự phá hoại của không quân Mỹ.

Năm 1971, Trần Đăng Sinh tốt nghiệp trường cấp II-III Tây Mỗ và đăng ký thi vào Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. May mắn, chàng trai Đăng Sinh khi đó đã đỗ vào khoa Lịch sử, nơi có các người thầy nổi tiếng như Giáo sư Trần Văn Giàu, Giáo sư Phan Huy Lê, Giáo sư Trần Quốc Vượng… mà bản thân luôn ngưỡng vọng.

Năm 1972, hưởng ứng lời kêu gọi thanh niên lên đường nhập ngũ, Trần Đăng Sinh cùng nhiều sinh viên tạm xếp bút nghiên vào Nam chiến đấu chống Mỹ, bảo vệ Tổ quốc.

Ngày 30/4/1975, đất nước thống nhất, Trần Đăng Sinh hoàn thành nghĩa vụ của một người con với đất nước. Lúc này, khát vọng được trở lại giảng đường đã thôi thúc người lính trẻ. Ông trình bày nguyện vọng được tiếp tục đi học với đơn vị nhưng bị từ chối.

Mỗi lần đi qua Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, chàng thanh niên ấy lại thoáng buồn vì ước mơ đi học vẫn còn dang dở.

Không lâu sau, cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam (tháng 12/1978) rồi chiến tranh biên giới phía Bắc (tháng 2/1979) nổ ra, Trần Đăng Sinh lại theo đơn vị lên đường chiến đấu.

Đến tháng 7/1981, Trần Đăng Sinh được đơn vị cử đi học lớp huấn luyện sĩ quan ở Đà Lạt. Lần này, ông từ chối và xin ra quân để trở lại học tập dưới mái trường Tổng hợp Hà Nội, tiếp nối ước mơ còn dang dở. May mắn là nguyện vọng của ông được chấp thuận.

Dưới mái trường đại học

Trở về Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Trần Đăng Sinh lúc này 28 tuổi vào học khóa K27 khoa Lịch sử do thầy Lương Gia Tĩnh làm chủ nhiệm.

“Lúc đó, trong lớp có cả cán bộ đi học và học sinh thi đỗ đại học nên chênh lệch tuổi tác. Các bạn trẻ khoảng 18, 19 tuổi, học rất giỏi và thông minh, còn tôi thì đã gần 30 tuổi với 10 năm trong quân đội nên kiến thức đã hổng nhiều” – Phó Giáo sư Trần Đăng Sinh tâm sự.

Muốn bắt kịp các bạn càng phải cố gắng ngày đêm học tập bởi ông tự nhận bản thân không phải là người thông minh nhưng được cái chịu khó và rất thích học, học có mục đích.

“Nhờ cần cù bù thông minh” kết thúc năm học đầu tiên, Trần Đăng Sinh là người có thành tích học tập xuất sắc nhất khoa và được cử đi học đại học ở Liên Xô.

Khoảng tháng 9/1982, ông chuyển sang học tiếng Nga tại Trường Đại học Ngoại ngữ một năm. Bắt đầu học ngoại ngữ là điều không đơn giản, nếu bạn học một thì ông phải phấn đấu gấp hai ba lần. Có những từ mới cần học và dịch thì phải tra từ điển nhiều lần để nhớ. Những năm tháng đất nước đang trong thời bao cấp còn nghèo, ăn cơm trộn hạt bo bo mà đói không có sức để học. Trước khi sang Liên Xô, ông phải nằm viện một thời gian do học hành vất vả và suy nhược cơ thể.

Video đang HOT

Tháng 7/1984, Trần Đăng Sinh lên đường sang Liên Xô học đại học. “Ở đây, cuộc sống khác hoàn toàn với Việt Nam, mọi thứ đều hiện đại và đầy đủ, cảm xúc đúng là khó mà tưởng tượng được” – Phó Giáo sư Trần Đăng Sinh chia sẻ.

Được sống trong điều kiện đầy đủ ở Liên Xô càng khiến ông nghĩ về quê hương, gia đình vẫn còn nhiều khó khăn. Đó là động lực để ông càng quyết tâm vươn lên trong học tập.

Sau 1 năm học tiếng Nga ở thủ đô Moskva, Trần Đăng Sinh được phân về học ở khoa Triết học, trường Đại học Tổng hợp Kiev trong 5 năm.

Giáo dục của Liên Xô ở bậc đại học là tự đọc, tự tìm hiểu là chính, khác với Việt Nam nặng về cách thầy đọc trò ghi.

Nhờ kiến thức được học ở Liên Xô đã giúp ông có tri thức nền tảng để khi về Việt Nam đi sâu nghiên cứu và giảng dạy triết học, đặc biệt là triết học với tôn giáo.

Mê Triết học bởi sự thông thái

Tháng 11/1990, Trần Đăng Sinh tốt nghiệp đại học và trở về Việt Nam sau 6 năm học tập. Xuống sân bay Nội Bài, hình ảnh đầu tiên ông nhìn thấy là người nông dân vác cày ra ngoài đồng.

Trời đang mùa đông, cánh đồng khô nứt, người dân rất vất vả, lam lũ nhưng trên môi họ cười rất tươi.

Đó là niềm vui, niềm hạnh phúc của mỗi người khi đất nước bắt đầu đổi mới, nghiên cứu và giảng dạy Triết học cũng hòa chung vào sự nghiệp đó.

Tháng 1/1991, ông Trần Đăng Sinh được nhận vào giảng dạy ở bộ môn Triết học, khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Càng đi sâu nghiên cứu triết học, ông càng đem lòng đam mê, yêu thích bởi “Triết học là sự thông thái”.

Nhờ triết học gắn liền với tư duy lý luận, giúp con người nhận thức những vấn đề chưa biết của thế giới.

Theo Phó Giáo sư Trần Đăng Sinh: ”Khác với triết học phương Tây, triết học phương Đông thường gắn với tôn giáo và các học thuyết chính trị đạo đức. Ở Việt Nam cũng như vậy, tư tưởng triết học được ẩn nhiều trong các hình thức khác nhau như: đạo đức, tôn giáo, phong tục, lối sống…”.

Từ đó, ông đi sâu vào nghiên cứu triết học với tôn giáo.

Bởi tôn giáo là một thành tố văn hóa, mà văn hóa là nguồn lực đảm bảo đời sống tinh thần, do đó tôn giáo cũng là nguồn lực của xã hội.

Khi đứng trên giảng đường dạy sinh viên về các vấn đề tôn giáo, ông nhận thấy cần phải có giáo trình để cho người học.

Ông tâm sự: “Khi đó cơ sở vật chất giảng dạy của trường còn thiếu thốn, sách tham khảo nghiên cứu hạn chế. Nhưng tình yêu với triết học, bằng sức trẻ và sự nhiệt huyết, tôi vẫn quyết tâm viết cuốn giáo trình Tôn giáo học”.

Năm 2001, cuốn sách hoàn thành với 3 nội dung chính: Những vấn đề lý luận chung; Những vấn đề lịch sử tôn giáo; Những vấn đề thực tiễn.

Trong đó, cuốn sách đã nghiên cứu một số khái niệm về tôn giáo, tín ngưỡng, cuồng tín… và làm rõ sự khác biệt của nó.

Ông cho rằng: ”Không đồng nhất tôn giáo với các mặt xấu như mê tín, mê tín dị đoan. Từ đó bảo vệ và phát huy giá trị tốt đẹp như thờ cúng vua Hùng, ông bà tổ tiên, người có công với Tổ quốc.

Chính nhờ niềm tin tôn giáo, tin vào cái đức, thiện… mà con người đã vượt qua nhiều khó khăn trong cuộc sống”.

Năm 2011, khoa Triết học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội được thành lập, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đăng Sinh được bổ nhiệm là Chủ nhiệm khoa.

Bên cạnh công tác quản lý, giảng dạy, ông còn đi sâu vào nghiên cứu khoa học. Ông là tác giả của nhiều công trình nghiên cứu về tôn giáo.

Trong đó có các đề tài ông làm chủ nhiệm như: “Đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc Việt Nam – cơ sở triết học và vai trò trong lịch sử dân tộc”, Quỹ Phát triển Khoa học Công nghệ, 2012-2016; “Hiện tượng Tôn giáo mới và sự tác động của nó đến đời sống xã hội tại miền Bắc Việt Nam hiện nay”, Bộ Khoa học và Công nghệ, 2017-2019…

Các công trình sách gồm: Nghiên cứu và giảng dạy Triết học trong thời đại ngày nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2012; Đạo làm người trong văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Lý luận Chính trị, 2014; Giáo trình triết học Mác – Lênin nâng cao, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2014; Đạo lý uống nước nhớ nguồn – Cơ sở triết học và giá trị lịch sử dân tộc, Nhà xuất bản Giáo dục, 2017…

Hiện nay, dù nghỉ công tác quản lý nhưng Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đăng Sinh vẫn tiếp tục gắn bó với sự nghiệp giảng dạy và nghiên cứu.

Mỗi thế hệ sinh viên khoa Triết học ra trường trở thành nhà khoa học, người nghiên cứu giảng dạy hay làm các công việc phục vụ xã hội thì ông đều hạnh phúc bởi nó góp phần lan tỏa tình yêu triết học ra xã hội.

Ông quan niệm rằng: ”Triết học không phải cái gì quá cao siêu và trừu tượng. Triết học luôn hiện hữu trong chính những gì đang diễn ra ở cuộc sống này”.

Tưởng nhớ người thầy mẫu mực, học giả uyên bác GS - Nhà giáo Ưu tú Phùng Văn Tửu

Vẫn biết là thầy đã nằm viện không ít ngày, vẫn biết "sinh lão bệnh tử" là quy luật của đời người, nhưng GS - NGƯT Phùng Văn Tửu ra đi để lại sự ngỡ ngàng, bao niềm tiếc thương ngậm ngùi cho gia đình, cho đồng nghiệp và bao thế hệ học trò. Hình ảnh người thầy mẫu mực, học giả uyên bác vẫn in đậm dấu ấn trong lòng lớp lớp sinh viên và giáo viên của Khoa Văn, Trường Đại học Tổng Hợp, Trường Đại học Vinh và đặc biệt là Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

GS. Phùng Văn Tửu sinh năm 1935 tại xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, trong một gia đình nhà giáo. Cụ thân sinh là nhà giáo Phùng Văn Trinh, một người thầy tôn kính. Quý danh của cụ đã được đặt tên cho một trường tiểu học ở huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.

Các anh chị em của thầy đều trưởng thành, trở thành những nhà giáo, kĩ sư, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng. Anh trai cả của thầy là GS. Phùng Văn Tửu (1923 -1997) nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội khóa VIII - IX (1987 - 1997), Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam (1993 - 1997). Chị gái lớn của thầy là Thẩm phán nổi tiếng Phùng Lê Trân (1921-2007), người được mệnh danh là "Bao Công Việt Nam".

Họ Phùng ở quê hương Bát Tràng của GS. Phùng Văn Tửu là một trong năm dòng họ chính (Trần, Lê, Phùng, Nguyễn, Phạm) đã dựng nên và làm vẻ vang làng gốm Bát Tràng.

Phó Giáo sư Trần Đăng Sinh: Từ người lính đến người thầy mê Triết học - ảnh 2

GS. Phùng Văn Tửu, chuyên gia đầu ngành về văn học phương Tây.

GS. Phùng Văn Tửu tốt nghiệp đại học năm 1959, từng là cán bộ giảng dạy tại Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội từ năm 1959 - 1961, tại Trường Đại học Sư phạm Vinh từ năm 1961 - 1968, tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội từ năm 1969 cho đến khi nghỉ hưu năm 2002.

GS. Phùng Văn Tửu được phong hàm Giáo sư từ năm 1991, được Nhà nước công nhận là Nhà giáo Ưu tú, được trao tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhì, Huân chương Lao động hạng Ba, Huy chương Hữu nghị Campuchia, Huy chương Vì sự nghiệp giáo dục, Giải thưởng Nhà nước về Khoa học Công nghệ năm 2005, Giải thưởng Hội Nhà văn năm 2017. Ông là tác giả của 11 cuốn sách chuyên khảo, 14 sách dịch và hơn 50 bài báo khoa học chuyên ngành Văn học phương Tây.

GS. Phùng Văn Tửu đã để lại trong lòng nhiều thế hệ học trò hình ảnh một người thầy mẫu mực. Sự mẫu mực của ông được thể hiện nhất quán từ tư tưởng đạo đức đến hành vi, lối sống, từ trong giảng đường đến ngoài xã hội.

Ông sống mực thước, vui vẻ, lịch lãm, không cần đua chen; rất khiêm nhường nhưng cũng chu đáo đến tỉ mỉ tinh tế; rất khắt khe về các tiêu chí khoa học nhưng cũng rất bao dung, độ lượng, luôn động viên học trò trong học hành, trong công việc; chan hòa với mọi người nhưng không hùa theo, sống chân chất mà không hư vinh... Có rất nhiều học trò đã kể lại những câu chuyện thật cảm động về người thầy giáo mẫu mực - GS. Phùng Văn Tửu.

Ở trên giảng đường, sự mẫu mực của GS được thể hiện ở từng lời nói, cử chỉ. Cách viết bảng của thầy rõ ràng sáng sủa mà khoa học, bắt đầu từ phía trên bên trái và kiến thức bên phải, phía dưới bảng. Một mặt bảng đủ những ý chính của bài, không hề xóa sửa; chữ viết nghiêng đều tăm tắp của lớp người được đào tạo thời thuộc Pháp. Trông chữ có thể biết phẩm chất con người nghiêm cẩn.

Lối dẫn dắt, gợi mở bài giảng vừa giản dị, dễ hiểu xen cả phần hóm hỉnh hài hước của thầy đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt trong từng tiết học. Cách ra đề của thầy vừa uyên bác vừa kích thích tinh thần phản biện của học trò...

Chắc rằng khó ai quên được hình ảnh một nhà sư phạm mẫu mực: chuông báo vào lớp đã thấy thầy đứng trước cửa phòng; khi thầy ngừng giảng, để viên phấn vào đúng vị trí, gấp giáo án lại, cũng là lúc chuông báo hết giờ. Buổi học nào cũng vậy, không sai dù nửa phút.

GS. Phùng Văn Tửu cũng là người đã khuyến khích học trò xưng "tôi" với giảng viên và giảng viên gọi sinh viên là các anh các chị. Lối xưng hô này vừa thể hiện sự tôn trọng, tạo sự bình đẳng trong đối thoại giữa thầy và trò, vừa là chuẩn mực của cách xưng hô ở trường đại học.

Đức khiêm tốn cũng là một mẫu mực của GS. Phùng Văn Tửu. Thầy làm việc thầm lặng hết mình, đóng góp nhiều cho nghề sư phạm và cả nghiên cứu khoa học, song thầy luôn vui vẻ chân tình, không hề đua tranh chạy theo hư vinh.

Có những lần góp ý kiến cho đề cương các luận án về văn học phương Đông, thầy thường nói: "Đây là vấn đề ngoại đạo đối với tôi". Nhưng những ý kiến đóng góp của thầy không hề "ngoại đạo", vẫn vô cùng xác đáng, đặt ra những câu hỏi khiến cả thầy hướng dẫn và NCS được sáng tỏ rất nhiều về đề tài, hoặc cách triển khai đề tài.

GS. Phùng Văn Tửu cũng là con người nhân ái, bao dung, cẩn thận và chu đáo đến tỉ mỉ. Rất nhiều học trò đã trưởng thành nhờ nhận được sự nâng đỡ bao dung của Thầy, từ việc soạn giáo án đến việc chuẩn bị trang phục lên lớp ngay tiết đầu tiên, như lời căn dặn của người cha đối với con. Nhiều học trò đã bày tỏ hạnh phúc và may mắn được thụ giáo với Thầy.

Nền tảng và sự thành công của việc giảng dạy trên lớp là kết quả của những nghiên cứu dày dặn, khúc chiết về lĩnh vực văn học phương Tây và nhiều lĩnh vực văn hóa khác. GS. Phùng Văn Tửu là một học giả uyên bác, chuyên gia đầu ngành về Văn học Pháp (về Rouseau, Hugo, Aragon...), văn học phương Tây ở Việt Nam.

Những năm nghiên cứu và giảng dạy của thầy chủ yếu trong giai đoạn chiến tranh và hậu chiến tranh, với những bộn bề khó khăn, thiếu thốn. Nhưng những điều đó không cản được những say mê tiếp cận của thầy với nền văn học phương Tây và thế giới. GS. Phùng Văn Tửu tự mở đường nghiên cứu khoa học của mình.

GS nghiên cứu về nhiều lĩnh vực của văn học phương Tây, để tạo nền tảng đi sâu vào những vấn đề hẹp với những "đổi mới", "cách tân": Cách tân của tiểu thuyết Pháp nửa sau thế kỉ XX, Cách tân nghệ thuật Văn học phương Tây. GS từng nói với học viên, không nên nghiên cứu quá rộng, cần nghiên cứu sâu vào lĩnh vực nào đó, mới mong có đóng góp thật sự cho khoa học.

GS. Phùng Văn Tửu không chỉ là người luôn cập nhật những vấn đề mới về tác giả, tác phẩm, cũng như các khuynh hướng văn học phương Tây, mà còn đi đầu trong những đổi mới nghiên cứu về phương Tây hiện đại, trong đó có văn học Pháp. Bởi lẽ những vấn đề mới luôn mang tính thời sự và tính khoa học của nó cũng được tiếp nhận không hoàn toàn giống nhau.

Một lần tặng sách cho chúng tôi, GS. Phùng Văn Tửu nói: "Sách của tôi chỉ dành cho ba loại người đọc: người cần nó, người thích nó, và người ghét nó. Hai loại trước thì đã đành, nhưng người ghét nó cũng sẽ đọc, để họ thấy tôi đáng ghét ở chỗ nào. Thí dụ, tôi quan niệm về Hậu hiện đại khác với một số người, nên họ có thể ghét, biết đâu". Việc tiếp nhận về một vấn đề văn học không hoàn toàn giống nhau cũng là chuyện bình thường trong khoa học.

GS. Phùng Văn Tửu nói "có thể ghét, biết đâu". Nhưng thật ra trong nhiều trang viết thầy đều nói đến cái hay cái đẹp của văn chương phương Tây, mang niềm say mê tuyệt vời ấy lan tỏa đến sinh viên và những người nghiên cứu văn học phương Tây thì làm sao "có thể ghét" cho được.

Các giáo trình Văn học phương Tây, cuốn Cảm thụ và giảng dạy văn học nước ngoài (NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2002; 2008) của GS Phùng Văn Tửu cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị định hướng đối với những người quan tâm nghiên cứu về văn học nước ngoài ở trong và ngoài nhà trường đại học.

Đối với GS. Phùng Văn Tửu, khái niệm "về hưu" chỉ là hình thức. Thời gian nghỉ hưu chính là lúc thầy có thể chuyên tâm dành cho những nghiên cứu chuyên sâu, mới mẻ của thầy. Chính vì vậy, cụm công trình Tiểu thuyết Pháp nửa sau thế kỉ XX của GS. Phùng Văn Tửu được Giải thưởng Nhà nước về KHCN năm 2005, sau khi thầy nghỉ hưu 3 năm, và cuốn chuyên khảo Cách tân nghệ thuật văn học phương Tây (NXB KHXH, HN, 2017) của thầy được Giải thưởng Hội nhà văn năm 2017, sau khi thầy nghỉ hưu 15 năm.

Thành tựu về học thuật và dịch thuật của GS. Phùng Văn Tửu đã có nhiều đóng góp cho khoa học. Thầy là một dịch giả quen biết, nổi tiếng về truyện ngắn, tiểu thuyết và các chuyên luận; đồng thời còn là nhà nghiên cứu, phê bình văn học.

Trong thời kì đổi mới văn học, GS. Phùng Văn Tửu có một số bài tham gia vào đời sống văn học Việt Nam được độc giả rất chú ý. Những nghiên cứu của thầy không chỉ là tri thức bổ ích đối với những người nghiên cứu văn học phương Tây, mà còn là tài liệu tham khảo có hiệu quả đối với văn học Việt Nam, khi những người viết văn muốn "đổi mới", "cách tân" tiểu thuyết.

Hội tụ trong con người GS. Phùng Văn Tửu có một nhà giáo mẫu mực, một học giả uyên bác, lại có cả một con người đời thường nhân ái, chu đáo, lịch lãm và tinh tế.

Có lần Khoa Ngữ văn tổ chức đi du lịch Trung Quốc, GS. Phùng Văn Tửu cùng đi với cô Bùi Thị Bích Ngọc, phu nhân của Thầy. Đến cửa hàng ngọc trai ở Thượng Hải, Thầy đã lựa chọn mua một chiếc nhẫn đính viên ngọc trai rất đẹp, đeo vào ngón tay cho cô, trước con mắt vừa ngưỡng mộ vừa kính nể của mọi người trong khoa. Một hành vi nhỏ, nhưng thể hiện tình yêu, sự quan tâm chu đáo của thầy đối với người bạn đời, vừa có cái ân tình phương Đông, lại vừa có màu sắc lãng mạn phương Tây.

Trong lúc xã hội có những biểu hiện tiêu cực, kể cả trong giáo dục, mặc dù tuổi cao GS. Phùng Văn Tửu vẫn giữ nguyên tư thế người thầy nhân đức, cao khiết; vẫn nghiêm cẩn say mê nghiên cứu khoa học, vẫn một tấm lòng bao dung, chí tình với mọi người, đặc biệt đối với học trò.

GS. Phùng Văn Tửu đã rời cõi tạm đi về thế giới người hiền, để lại nỗi tiếc thương cho gia đình và biết bao thế hệ học trò; nhưng đạo đức của thầy, tấm gương về nhà giáo mẫu mực, về một học giả uyên bác, góp phần vào công cuộc đổi mới nghiên cứu, giảng dạy và sáng tạo văn học, vẫn còn sống mãi trong lòng nhiều thế hệ sinh viên, giảng viên Khoa Ngữ văn và mái Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

Mong thầy hãy yên nghỉ, sẽ có những học trò giỏi noi theo tấm gương sáng của thầy, san lấp nơi trống vắng khoa học mà thầy để lại hôm nay, kế tục sự nghiệp cao cả của thầy!

Cần bao nhiêu tiền để được thành lập trường đại học tư thục là phù hợp? Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Võ Đại Lược: 'Số tiền đầu tư cho việc thành lập trường đại học tư nên căn cứ vào quy mô đào tạo và ngành đào tạo'. Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang lấy ý kiến góp...

Chia sẻ
Giáo dục