Tin mới từng phút từ rất nhiều nguồn.
Vé tàu
2022
Bắc Nam, Địa phương https://www.vetau247.com

Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII

Chính trị 07/12/2022 - 13:34

Nội dung trình bày dưới đây nằm trong phần II chuyên đề "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới".

Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - ảnh 1

1. Tư tưởng Hồ chí Minh về nhà nước pháp quyền

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc và nhất quán về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó có tư tưởng về nhà nước pháp quyền, cụ thể như sau:

Thứ nhất, tư tưởng lấy “dân làm gốc”, Nhân dân là nguồn gốc và chủ thể của quyền lực nhà nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ/ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân/ Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra”. Hiến pháp năm 1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh đích thân chỉ đạo soạn thảo đã thể hiện cô đọng và đầy đủ tư tưởng đó của Người.

Thứ hai, tư tưởng vì con người, hướng tới con người, tất cả vì tự do, ấm no, hạnh phúc của Nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, xét về bản chất và mục tiêu, “không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa”.

Thứ ba, tư tưởng đề cao vai trò của Hiến pháp.

Trong tư tưởng và quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hiến pháp là yếu tố quan trọng và tiền đề của chế độ pháp quyền. Từ rất sớm, tư tưởng đó đã được Người thể hiện trong Bản yêu sách của Nhân dân An Nam vào năm 1919; trong đó, yêu sách thứ bảy được diễn đạt: “Bảy xin Hiến pháp ban hành/ Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Trong tác phẩm Nhời hô hoán cùng Hội Vạn quốc, Nguyễn Ái Quốc đã nêu rõ yêu sách: “Nếu được độc lập thì nước chúng tôi (...) xếp đặt một nền Hiến pháp theo những lý tưởng dân quyền”. Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh đã được hình thành và đi vào thực tiễn cách mạng Việt Nam với các trụ cột: chủ quyền của Nhân dân, Hiến pháp, quyền và tự do của con người, của công dân.

Thứ tư, tư tưởng về phân công, kiểm soát quyền lực nhà nước.

Hiến pháp năm 1946 được soạn thảo và ban hành dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác lập mô hình sáng tạo về tổ chức quyền lực nhà nước trên cơ sở phân công và kiểm soát quyền lực giữa các thiết chế Nghị viện, Chính phủ và cơ quan tư pháp; xác định cơ quan tư pháp gồm hệ thống các Tòa án. Hiến pháp năm 1946 cũng quy định thủ tục toàn dân phúc quyết Hiến pháp (Điều thứ 70).

Thứ năm, tư tưởng về quản lý nhà nước, quản lý xã hội dựa trên pháp luật; thực hiện pháp luật công bằng với nền hành chính và tư pháp liêm chính, đạo đức, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân; kết hợp quản lý xã hội bằng pháp luật với giáo dục đạo đức.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh ý nghĩa và vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm lợi ích của Nhân dân và phản ánh ý chí, nguyện vọng của Nhân dân. Các lý tưởng và giá trị công bằng, dân chủ, tự do chân chính luôn là những yếu tố hạt nhân trong tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật, về thi hành và áp dụng pháp luật, nhất là trong hoạt động tư pháp, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư là những chuẩn giá trị vừa có nội hàm đạo đức, vừa có nội hàm pháp lý, phù hợp với giá trị công bằng, công lý. Người khẳng định: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”. Người luôn đề cao hành động thực tiễn, nói đi đôi với làm, ý thức noi gương của cán bộ, đảng viên, coi thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra tính đúng đắn và hiệu quả của các chính sách, pháp luật.

Thứ sáu, tư tưởng về vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng ta là đảng cầm quyền". Cầm quyền theo tư tưởng của Người là chăm lo củng cố vai trò làm chủ của Nhân dân, định ra đường lối, chính sách đúng đắn, lãnh đạo để các đường lối, chính sách đó được đề lên thành các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh đạo cần được thể hiện “trong mọi công tác thiết thực của Đảng” phải “từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”.

2. Các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nhận thức lý luận của Đảng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân tại Việt Nam là quá trình phát triển lâu dài, bền bỉ và gắn chặt với lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam. Giai đoạn từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (tháng 01/1994) đến nay là thời kỳ thể hiện tập trung nhất sự phát triển các quan điểm và đường lối của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, nhiều nội dung quan trọng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được thể hiện sớm hơn trong các văn kiện của Đảng, các bài nói và viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước và các bản Hiến pháp của Nhà nước ta.

Tại các Đại hội IV (năm 1976), V (năm 1982) và VI (năm 1986), Đảng ta đã đúc kết bài học kinh nghiệm lớn trong toàn bộ hoạt động của Đảng và Nhà nước ta là “lấy dân làm gốc” và đề ra phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, coi trọng công tác vận động quần chúng, phát huy sức mạnh quyền làm chủ của Nhân dân trong đời sống xã hội.

Với việc đổi mới tư duy chính trị, tư duy pháp lý, tại Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta bắt đầu nêu ra vấn đề thực hiện cải cách lớn về bộ máy nhà nước.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) khẳng định: “toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về Nhân dân. Dân chủ gắn liền với công bằng xã hội”.

Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (tháng 01/1994) đã chính thức đưa vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vào văn kiện của Đảng, khẳng định nhiệm vụ chiến lược: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân".

Đại hội VIII của Đảng (tháng 6/1996) tiếp tục khẳng định 5 quan điểm và các nhiệm vụ xây dựng kiện toàn bộ máy nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, quản lý xã hội bằng pháp luật.

Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Đảng trong các văn kiện nêu trên đã được thể chế hóa tại Điều 2 Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001, bằng quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”.

Bộ Chính trị đã ban hành hai nghị quyết quan trọng liên quan đến tổ chức, hoạt động của Nhà nước: Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Các văn kiện quan trọng này đã tạo được những chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và thực tiễn liên quan đến các yếu tố trung tâm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là hệ thống pháp luật và hệ thống tư pháp.

Đại hội X của Đảng (tháng 4/2006) lần đầu tiên đặt nhiệm vụ về xây dựng cơ chế giám sát Hiến pháp và cơ chế phán quyết về các vi phạm Hiến pháp trong các hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp. Việc xác định nhiệm vụ đó đặt cơ sở quan trọng cho việc thúc đẩy mạnh mẽ ý thức tôn trọng và thi hành Hiến pháp, đề cao vai trò của Hiến pháp trong Nhà nước và xã hội.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã làm sâu sắc hơn quan điểm và nhận thức của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với việc xác định: “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” là một trong tám phương hướng cơ bản của xây dựng đất nước đến giữa thế kỷ XXI.

Các Đại hội XI (2011) và XII (2016) của Đảng đều đặt ra nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải tiến hành đồng bộ cả về lập pháp, hành pháp, tư pháp và gắn với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả và đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội; trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước phải tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền.

Đại hội XIII của Đảng (tháng 01/2021) đặt ra những định hướng, quan điểm, giải pháp trọng tâm cho tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Đại hội đề ra nhiệm vụ “Nghiên cứu, ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”.

Có thể khẳng định rằng, kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc và sáng tạo kinh nghiệm trên thế giới, Đảng ta đã từng bước xây dựng quan điểm đầy đủ về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và có chủ trương kịp thời, lộ trình khoa học, sát với đòi hỏi của thực tiễn cách mạng nước ta để không ngừng hoàn thiện mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

3. Quan niệm, bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Quan niệm về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một phương thức tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước dựa trên thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, vì con người, công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước do Nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo với mục tiêu xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, tất cả vì con người. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dựa trên các giá trị cơ bản: về thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; công nhận, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả quyền lực nhà nước; thực hiện nguyên tắc bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và các cam kết quốc tế của Việt Nam. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được xây dựng, hoàn thiện đồng thời với xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy thực hiện mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

Dân chủ xã hội chủ nghĩa được khẳng định trong quá trình tổ chức thực thi quyền lực nhà nước và trong đời sống xã hội. Nhà nước có nhiệm vụ tận tụy phục vụ Nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của Nhân dân.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định, bảo đảm và bảo vệ các giá trị xã hội, đạo đức tiến bộ về dân chủ, công bằng, công lý, bình đẳng, nhân đạo, tất cả vì con người; lấy con người là trung tâm của mọi chính sách, pháp luật của Nhà nước và của toàn bộ quá trình phát triển kinh tế, xã hội.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế.

4. Các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo

Đặc trưng này thể hiện tính đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phù hợp với hệ thống chính trị Việt Nam.

Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tất yếu lịch sử, là quy luật xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, nhân tố bảo đảm bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mang tính chính danh, chính đáng. Bằng Hiến pháp, Nhân dân khẳng định và ghi nhận Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội (Điều 4 Hiến pháp năm 2013).

Đảng lãnh đạo Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam bằng Cương lĩnh, chiến lược, các chủ trương, chính sách lớn, bằng công tác tổ chức, cán bộ, bằng kiểm tra, giám sát; lãnh đạo thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật; lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách, Hiến pháp và pháp luật; chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các tổ chức của Đảng và đảng viên, nhất là tổ chức, đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, vừa phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, vừa phải nêu cao vai trò tiên phong trong thực hiện chủ trương, đường lối, các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Sự ra đời, hình thành và phát triển của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam gắn liền, không tách rời sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định bảo đảm sự thành công của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân ở Việt Nam. Điều 4 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân

Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Điều 2 Hiến pháp năm 2013, khẳng định: “1) Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. 2) Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Đó chính là sự ghi nhận và khẳng định chủ quyền nhân dân.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam; Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Nhà nước bảo đảm quyền bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và tương trợ lẫn nhau giữa các dân tộc. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước phục vụ Nhân dân, phụng sự Tổ quốc, có mục đích duy nhất là mưu cầu tự do, hạnh phúc cho Nhân dân, đặt quyền lợi của Nhân dân lên trên hết; toàn bộ thể chế nhà nước, từ chính sách, pháp luật, các thiết chế và cơ chế thực thi quyền lực, các nguồn lực đang nắm giữ phải được vận hành, quản lý, sử dụng để đáp ứng nguyện vọng, ý chí và lợi ích của Nhân dân, của quốc gia - dân tộc.

Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, thực hiện dân chủ, đại diện, bảo vệ lợi ích hợp pháp và chính đáng của Nhân dân; các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải chịu sự giám sát của Nhân dân.

Quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật

Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân vừa là bản chất vừa là mục tiêu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là giá trị cao cả của xã hội.

Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là lấy con người làm trung tâm, bảo đảm quyền con người và phát triển con người toàn diện; Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.

Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật

Đây là đặc trưng xuyên suốt bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm, tổ chức bộ máy nhà nước do Hiến pháp và pháp luật quy định; mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ chỉ được làm những gì Hiến pháp và pháp luật quy định, không được tự mình đặt ra những thẩm quyền ngoài quy định của Hiến pháp và pháp luật. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước phải có trách nhiệm thượng tôn Hiến pháp và bảo vệ sự tôn nghiêm của Hiến pháp. Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật phải được phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh; xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiệu lực, hiệu quả.

Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp

Đây là đặc trưng thể hiện giá trị đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gắn với hệ thống chính trị Việt Nam. Nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước; quyền lực nhà nước thống nhất ở Nhân dân, được hình thành trên sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, những truyền thống tốt đẹp trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp đều có chung nguồn gốc thống nhất từ Nhân dân, được thể hiện ở: (1) Tính thống nhất về bản chất xã hội của quyền lực nhà nước. (2) Tính thống nhất về định hướng và mục tiêu phát triển đất nước. (3) Tính thống nhất của nền tảng pháp lý thực thi quyền lực nhà nước. Sự thống nhất quyền lực đó được ghi nhận nhất quán trong các Hiến pháp của nước ta.

Quyền lực nhà nước được giới hạn bởi Hiến pháp và luật; việc thực hiện quyền lực nhà nước phải được kiểm soát để tránh lạm quyền, lộng quyền. Kiểm soát quyền lực nhà nước được thực hiện bằng nhiều phương thức: Kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước và trong từng cơ quan nhà nước; kiểm soát quyền lực từ xã hội và Nhân dân.

Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán

Đây là đặc trưng mang tính phổ biến của nhà nước pháp quyền, trong đó có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, hiện đại, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán là điều kiện cần và đủ để bảo đảm xã hội có trật tự, kỷ cương, xác lập được vị trí tối thượng của pháp luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.

Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hệ thống pháp luật phải đáp ứng các yêu cầu sau: (1) Trước hết, hệ thống pháp luật phải dân chủ, công bằng, nhân đạo, vì con người: Tính dân chủ đòi hỏi pháp luật phải được xây dựng theo phương thức dân chủ, ghi nhận, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của Nhân dân; tính công bằng đòi hỏi hệ thống pháp luật phải bảo đảm sự bình đẳng của mọi chủ thể trước pháp luật, trước tòa án, tạo ra khung khổ pháp lý cho các chủ thể khác nhau trong xã hội phát huy hết năng lực, khả năng, trí tuệ của mình, góp phần phát triển đất nước; tính nhân đạo đòi hỏi hệ thống pháp luật phải lấy con người, quyền con người làm mục tiêu trọng tâm, là nội dung cốt lõi của các quy phạm pháp luật; bảo vệ quyền và lợi ích của các nhóm đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương. (2) Hệ thống pháp luật phải mang tính tổng thể, tính bao trùm, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội: Tính tổng thể thể hiện ở mối liên hệ chặt chẽ giữa các bộ phận cấu thành; tính bao trùm đòi hỏi sự bao quát mọi mặt của đời sống xã hội, điều chỉnh các quan hệ xã hội... (3) Hệ thống pháp luật cần đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận: Tính đầy đủ, kịp thời đòi hỏi hoạt động xây dựng, hoàn thiện pháp luật phải được tiến hành thường xuyên, liên tục để đáp ứng kịp thời nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với các vấn đề kinh tế - xã hội mới phát sinh hoặc loại bỏ các quy định đã lỗi thời; tính thống nhất, đồng bộ đòi hỏi các chỉ dẫn pháp lý phải rõ ràng, dứt khoát, không gây ra nhầm lẫn; tính khả thi đòi hỏi mọi quy định pháp luật không được chứa đựng yêu cầu không thể thực hiện; tính công khai đảm bảo sự công bố rộng rãi; tính minh bạch thể hiện sự rõ ràng, dễ hiểu; tính ổn định đảm bảo không có sự thay đổi tùy tiện, khả năng tiên liệu với mọi chủ thể chịu tác động; tính dễ tiếp cận đòi hỏi sự sắp xếp, lưu giữ hợp lý, thuận tiện... (4) Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hệ thống pháp luật phải được thực hiện nghiêm minh, hiệu quả và nhất quán. Việc thực hiện pháp luật nghiêm minh, hiệu quả, nhất quán chính là thước đo tính hiệu lực, hiệu quả quản lý xã hội của Nhà nước. Tính hiệu quả trong thực hiện pháp luật đòi hỏi việc xử lý vi phạm Hiến pháp và pháp luật được thực hiện theo cách thức ít tốn kém nhất mà vẫn đạt được mục tiêu, yêu cầu điều chỉnh quan hệ xã hội đã đặt ra. Tính nghiêm minh, nhất quán trong việc thực hiện pháp luật đòi hỏi các vụ việc có tình tiết tương tự nhau phải được xử lý theo cách thức và hệ quả pháp lý tương tự nhau.

Bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Đây là một trong những đặc trưng cốt lõi, được cộng đồng quốc tế thừa nhận như là một giá trị phổ biến không thể thiếu của nhà nước pháp quyền; là điều kiện để thực hiện chức năng quan trọng của Nhà nước: thực hiện pháp luật công bằng, nghiêm minh, bảo vệ hiệu quả các quyền con người, quyền công dân, duy trì và bảo vệ công lý.

Tính độc lập thể hiện ở những nội dung sau: Độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử; thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập khi xét xử; độc lập về phương thức thực hiện quyền năng: tố tụng tư pháp; chỉ tuân theo pháp luật; độc lập trong việc đưa ra phán quyết (bản án, quyết định); nghiêm cấm mọi sự can thiệp vào hoạt động xét xử.

Tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà Nhà nước đã ký kết hoặc gia nhập, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc, pháp luật quốc tế

Đây là đặc trưng phổ biến của nhà nước pháp quyền, thể hiện trách nhiệm của các quốc gia trong cộng đồng quốc tế. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, pháp luật quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế của Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; tăng cường sức mạnh quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước; góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

5. Nền tảng tư tưởng, tiền đề chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, văn hóa, đạo đức của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được hình thành, phát triển gắn liền với các nền tảng tư tưởng, tiền đề chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, đạo đức của xã hội Việt Nam.

- Nền tảng tư tưởng: Nền tảng tư tưởng của việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền lực nhà nước được Đảng Cộng sản Việt Nam lấy làm nền tảng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp quyền được coi là nền tảng trong việc soạn thảo Hiến pháp năm 1946 và các bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Hiến pháp năm 2013. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền tảng của quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước ta trong suốt gần 80 năm qua và thời gian tới.

- Tiền đề chính trị: Tư tưởng và quan điểm của Đảng là tiền đề chính trị của việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được hình thành và phát triển trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

- Cơ sở pháp luật: Hiến pháp năm 2013, hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam là cơ sở quan trọng cho việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

- Tiền đề kinh tế: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tiền đề kinh tế của việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

- Tiền đề xã hội: Xây dựng một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, pháp quyền vừa là tiền đề, vừa là mục tiêu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

- Tiền đề văn hóa, đạo đức: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, cũng là nền tảng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam gắn chặt với việc tạo dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc là tiền đề cho việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

BÀI HỌC KINH NGHIỆM

1. Trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, chủ thể trung tâm của công cuộc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; mọi chủ trương, chính sách, quy định pháp luật phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; hoàn thiện cơ chế pháp lý, bảo đảm các điều kiện để Nhân dân chủ động thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình.

2. Kiên quyết, kiên trì giữ vững sự tôn nghiêm của Hiến pháp, bảo đảm thượng tôn pháp luật; bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, thuộc về Nhân dân, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

3. Công tác cán bộ trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải thực sự là “then chốt của then chốt”, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức xây dựng, thi hành pháp luật các cấp có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; cán bộ chức vụ càng cao càng phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp, pháp luật.

4. Trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước, coi trọng nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn vì lợi ích chung, không bị chi phối bởi lợi ích cục bộ, lợi ích ngành, lựa chọn đúng trọng tâm, trọng điểm, hành động quyết liệt, năng động, sáng tạo, tích cực, với bước đi, lộ trình phù hợp; kịp thời tháo gỡ các điểm nghẽn; đề cao trách nhiệm người đứng đầu; bảo đảm hài hòa giữa kiên định và đổi mới, kế thừa và phát triển.

5. Nhận thức đúng đắn và bảo đảm sự lãnh đạo sát sao của các tổ chức đảng, cấp ủy đảng là yếu tố quan trọng hàng đầu bảo đảm thực hiện thành công các nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.